Mật ong Manuka
Mật ong Manuka là mật ong đơn bội từ mật hoa của cây Manuka (Leptospermum scoparium), loài cây mọc hoang khắp New Zealand và đông nam Úc. Giữa tháng 12 là thời điểm tốt nhất để ngắm những bông hoa Manuka đáng yêu ở New Zealand.
“Manuka” được đặt tên bởi những người Maori, những người Polynesia bản địa của New Zealand.
Đặc tính kháng khuẩn của mật ong là từ Hydrogen peroxide được tạo ra bởi một loại enzyme gọi là glucose oxidase. Mật ong Manuka cũng chứa các thành phần kháng khuẩn khác mà không thấy ở các loài mật ong khác. Đại học Waikato ở New Zealand đã trình bày các đặc tính kháng khuẩn cụ thể của mật ong Manuka là Yếu tố Manuka Duy nhất (UMF). Chỉ mật ong Manuka được chứng minh có chứa UMF trên 10 theo xác định của Đại học Waikato mới có thể công bố là “Mật ong Manuka UMF hoạt động”. Mật ong Manuka được bán như một loại thuốc thay thế đã được xác định là có UMF12 trở lên.
Tác dụng lâm sàng của Mật ong Manuka UMF chống lại vi khuẩn Helicobactor Pylori
Tác dụng lâm sàng của Mật ong Manuka UMF chống lại vi khuẩn Helicobacter Pylori đã được báo cáo bởi Tiến sĩ Shoko Honma, tại khoa ngoại trú dành riêng cho phụ nữ của Bệnh viện Cảnh sát Thủ đô Tokyo. Những điều sau đây là tóm tắt của báo cáo.
Tình trạng nhiễm H. Pylori
H. Pylori là một xoắn khuẩn gram âm và được phát hiện vào năm 1983 bởi Warren March. Người ta cho rằng việc nhiễm H. Pylori chủ yếu xảy ra ở thời thơ ấu và người ta nghi ngờ rằng thực phẩm được bảo quản trong điều kiện không hợp vệ sinh là nguyên nhân gây nhiễm trùng. Báo cáo của Asaka năm 1992 thống kê rằng 80% người trên 50 tuổi, bệnh nhân loét dạ dày và tá tràng, viêm dạ dày mãn tính và ung thư dạ dày bị nhiễm bệnh và sẽ có khoảng 60 triệu bệnh nhân mắc bệnh ở Nhật Bản. Thuốc kháng khuẩn thường được sử dụng để điều trị, tuy nhiên, sự xuất hiện của các chủng vi khuẩn kháng thuốc đã trở thành một vấn đề cần được quan tâm.
Kiểm tra những người được nhắm mục tiêu để thử nghiệm lâm sàng
9 người tham gia khám đã phát hiện nhiễm H. Pylori
(Nam: 4 người, nữ 5 người, 29-54 tuổi, trung bình: 44)
Phương pháp được sử dụng cho thử nghiệm lâm sàng
Mỗi người kiểm tra uống 1-2 muỗng cà phê mật ong Active UMF Manuka ba lần một ngày khi bụng đói trong 12 tuần liên tiếp. Chúng tôi đã quan sát tác dụng kháng khuẩn đối với H. Pylori bằng xét nghiệm urê trước và sau khi thử nghiệm. Hơn nữa, chúng tôi để họ có thể sử dụng mật ong Manuka với mong muốn của họ trong 12 tuần nữa và kiểm tra kết quả theo cách tương tự như đã sử dụng trong 12 tuần thử nghiệm đầu tiên.
Kết quả
Chúng tôi tách những người kiểm tra thành hai nhóm.
Nhóm A: 1 thìa cà phê mật ong Manuka (4 người kiểm tra)
Nhóm B: 2 thìa cà phê mật ong Manuka (4 người kiểm tra)
3 người kiểm tra nhóm A và 2 người kiểm tra nhóm B cho thấy tác dụng kháng khuẩn chống lại H. Pylori bằng xét nghiệm urê. Không ai trong số những người khám cho thấy bất kỳ vấn đề nào về chức năng gan hay thay đổi cân nặng.
Sau khi thử nghiệm 12 tuần kết thúc, thử nghiệm 12 tuần bổ sung cho phép người kiểm tra uống mật ong Manuka như cách họ muốn cho thấy kết quả rằng 2 trong số 3 người kiểm tra ở nhóm A và 2 người kiểm tra ở nhóm B cho thấy tác dụng kháng khuẩn chống lại H Pylori trong thử nghiệm đầu tiên vẫn duy trì tác dụng kháng khuẩn đối với H. Pylori. Điều này có nghĩa là 50% số người được kiểm tra (4 người từ 8 người được kiểm tra) quan sát thấy tác dụng kháng khuẩn.
Một người ở nhóm A được chẩn đoán mắc bệnh viêm dạ dày mãn tính luôn có cảm giác nặng bụng. Viêm dạ dày bề ngoài được phát hiện bằng nội soi dạ dày. Tuy nhiên, các triệu chứng đã biến mất sau khi bắt đầu dùng mật ong Manuka và người khám đã tiếp tục uống một tách trà có chứa 1 thìa mật ong Manuka mỗi ngày trong một năm. Lúc này niêm mạc dạ dày đã được phục hồi và nội soi dạ dày không phát hiện điều gì bất thường. Sau khi tiếp tục uống mật ong Manuka này trong tổng cộng một năm rưỡi, con số cao 105% vào thời điểm bắt đầu thử nghiệm đã giảm 53% trong thử nghiệm urê. Đây được coi là một sản phẩm có tác dụng kháng khuẩn tốt.
Thảo luận
Tác dụng kháng khuẩn chống lại H. Pylori được quan sát thấy ở 5 trong số 8 người kiểm tra (63%) và không có tác dụng phụ nào được quan sát thấy. Việc sử dụng 1 thìa Manuka mỗi ngày như một phần của cuộc sống hàng ngày bình thường có thể duy trì tác dụng kháng khuẩn này là điều đáng chú ý. Do đó, những bệnh nhân bị dị ứng với thuốc chống vi khuẩn hoặc không thể dùng thuốc chống vi khuẩn vì một số lý do khác vẫn có thể có được tác dụng kháng khuẩn chống lại H. Pylori bằng cách sử dụng mật ong Manuka.
Nguồn tham khảo:
Masahiro Asaka; Toshio Kimura; Mineo Kudo; Hiroshi Takeda; Sakiko Mitani; Tamotsu Miyazaki; Kazumasa Miki; David Y Graham. Relationship of Helicobacter pylori to Serum Pepsinogens in an Asymptomatic Japanese Population. Gastroenterology 102:760-766, 1992.
Naomi Uemura; Shiro Okamoto; Soichiro Yamamoto; Nobutoshi Matsumura; Shuji Yamaguchi; Michio Yamakido; Kiyomi Taniyama; Naomi Sasaki; Ronald J Schlemper. Helicobacter pylori infection and the development of gastric cancer. The New England Journal of Medicine Vol. 345, No. 11:784-789, 2001.
Willix DJ; Molan PC; Harfoot CG. A comparison of the sensitivity of wound-infecting species of bacteria to the antibacterial activity of manuka honey and other honey. J Appl Bacteriol. 1992 Nov;73(5):388-94.
Peter C Molan. The antibacterial activity of honey 2.Variation in the potency of the antibacterial activity. Bee World Vol.73 (2) 1992 pp.59-76.
N Al Somal, K E Coley, P C Molan, B M Hancock. Susceptibility of Helicobacter pylori to the antibacterial activity of manuka honey. J R Soc Med. 1994 January; 87(1): 9-12.
Shoko Honma, Clinical effects of UMF Manuka Honey against helicobactor Pylori, FOOD Style 21; 2004.5(Vol. 8 No. 5)