Lipid từ đại dương và Lecithin lòng đỏ trứng


Đây là một là sự kết hợp của 70% Lipid từ đại dương và 30% lecithin. Kết hợp Lipid từ đại dương với lecithin giúp tăng cường đáng kể các hoạt động dược lý của Lipid từ đại dương.

Trong khi cơ chế của sự tăng cường này vẫn chưa được hiểu rõ, có khả năng ít nhất một trong những cơ chế được cải thiện từ việc truyền tín hiệu từ tế bào sang tế bào do sự toàn vẹn của màng tế bào được duy trì tốt.

Lipid từ đại dương

Lipid từ đại dương được kết hợp với dầu ô liu theo tỷ lệ phức hợp Lipid từ đại dương với chín phần dầu ô liu. Ở dạng này, hoạt tính dược lý tự nhiên của Lipid từ đại dương cụ thể như một chất chống viêm trong viêm khớp thấp khớp và giúp tác nhân ức chế hình thành mạch được tăng cường đáng kể. Các hoạt động chống viêm và ức chế hình thành mạch đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa và kiểm soát nhiều căn bệnh đặc biệt là các rối loạn liên quan đến hình thành mạch như ung thư, viêm khớp thấp khớp, bệnh vẩy nến và bệnh võng mạc tiểu đường. Nó đã được chứng minh là ức chế hoạt động của các enzym chịu trách nhiệm sinh tổng hợp các prostaglandin tiền viêm và leukotrienes ngoài việc làm trung gian hoạt động của cytokine.

Nó cũng đã được chứng minh là một chất ức chế hiệu quả hoạt động của các yếu tố tăng trưởng, đặc biệt là các yếu tố tăng trưởng được biết là kích thích sự hình thành mạch như VEGF-1 và VEGF-2.

Lecithin (phosphatidyl choline)

Lecithin là một phospholipid (dầu hoặc mỡ) cũng chứa một nhóm phosphat. Về mặt hóa học, lecithin là phosphatidyl choline. Tuy nhiên, lecithin thương mại chứa một lượng phosphatidyl choline khác nhau tùy thuộc vào nguồn mà nó được tạo ra. Các nguồn phổ biến là đậu nành, hạt hướng dương, hạt cải dầu và lòng đỏ trứng. Các sản phẩm lecithin thương mại thường chứa khoảng 20% ​​phosphatidyl choline mặc dù lecithin có nguồn gốc từ lòng đỏ trứng có thể chứa 70% phosphatidyl choline.

Lecithin kết hợp với Lipid từ đại dương là từ lòng đỏ trứng. Phospholipid là một thành phần chính của màng tế bào của chúng ta và chịu trách nhiệm duy trì tính toàn vẹn của màng cũng như cung cấp nguồn choline (tiền chất trong quá trình tổng hợp chất dẫn truyền thần kinh acetylcholine).

Tính toàn vẹn của màng tế bào và đặc biệt là tính lưu động rất quan trọng đối với các chức năng sinh học bình thường và sức khỏe của chúng ta. Nhiều bệnh, một trong số đó là bệnh vẩy nến, trở nên trầm trọng hơn do mất tính toàn vẹn của màng tế bào.

Nghiên cứu

1. Tác dụng hiệp đồng chống hình thành mạch bằng hỗn hợp Lipid từ đại dương với lecithin. Thử nghiệm hình thành ống hình thành mạch trong ống nghiệm

Các kết quả được trình bày ở trên chỉ ra rằng sự kết hợp của Lipid từ đại dương với lecithin có tác dụng chống hình thành mạch tổng hợp. Hoạt tính sinh học chống tạo mạch này gợi ý rằng sự kết hợp này có tiềm năng ứng dụng lâm sàng trong các rối loạn liên quan đến hình thành mạch.

2. Tác dụng hiệp đồng chống viêm và chống hình thành mạch bằng sự kết hợp của Lipid từ đại dương với lecithin trong điều trị lâm sàng bệnh vẩy nến

Bệnh vẩy nến là một bệnh chủ yếu biểu hiện ở da nhưng trong một số trường hợp (viêm khớp vẩy nến) cũng có ở khớp. Bệnh lây truyền qua trung gian miễn dịch và biểu hiện bằng các tổn thương và viêm da gây đau, ngứa. Bệnh vẩy nến do một số cytokine tiền viêm và các yếu tố tăng trưởng tương tự có liên quan đến các bệnh viêm mãn tính như viêm khớp dạng thấp. Hoạt động của cytokine và yếu tố tăng trưởng trong một quá trình gọi là hình thành mạch (sự ra đời của các mạch máu mới) dẫn đến tăng sinh quá mức tế bào.

Đặc biệt, các yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF-1 và VEGF-2) đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành mạch và tăng sinh tế bào có ảnh hưởng bất lợi đáng kể trong bệnh vẩy nến. Nghiên cứu về các tác nhân có thể ức chế các chức năng gây bệnh này mà không tạo ra các tác dụng phụ khác đã tạo ra một sản phẩm tự nhiên bao gồm sự kết hợp của Lipid từ đại dương và lecithin.

Sự kết hợp này đã tạo ra kết quả xuất sắc trong một cuộc nghiên cứu tại một phòng khám da liễu ở Hoa Kỳ. Các trường hợp bệnh vẩy nến thể mảng và mụn mủ mãn tính không đáp ứng với tất cả các phương pháp điều trị trước đó đã cho thấy sự giảm đáng kể các vùng bị ảnh hưởng trong vòng hai đến tám tuần kể từ khi bắt đầu sử dụng kết hợp.

Từ các trường hợp trên, kết hợp với một loạt các trường hợp bệnh vẩy nến từ trung bình đến nặng khác được điều trị bằng Lipid từ đại dương và lecithin, có thể thấy rằng sản phẩm này mang lại một phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả để kiểm soát các triệu chứng của căn bệnh suy nhược này.

Việc tích hợp sản phẩm tự nhiên này vào các chế độ điều trị đã được công nhận cho các bệnh vẩy nến sẽ bổ sung hoặc giảm yêu cầu sử dụng steroid và các hợp chất chống viêm khác có thể gây ra các tác dụng phụ khó chịu.

Nguồn tham khảo:

Yuan L, Yoshida M, Davis PF. Inhibition of pro-angiogenic factors by a lipid-rich shark extract. J Med Food. 2006 Fall;9(3):300-6. Bioactivity Investigation Group, Wellington School of Medicine and Health Sciences, Wellington, New Zealand

Peet M, Stokes C. Omega-3 fatty acids in the treatment of psychiatric disorders. Drugs. 2005;65(8):1051-9 Swallownest Court Hospital, Doncaster and South Humber Healthcare NHS Trust, Sheffield, UK.

Simopoulos AP. Human requirement for N-3 polyunsaturated fatty acids. Poult Sci. 2000 Jul;79(7):961-70. The Center for Genetics Nutrition and Health, Washington, DC 20009, USA.

Hellhammer J, Fries E, Buss C, Engert V, Tuch A, Rutenberg D, Hellhammer D. Effects of soy lecithin phosphatidic acid and phosphatidylserine complex (PAS) on the endocrine and psychological responses to mental stress. Stress. 2004 Jun;7(2):119-26. Neuropattern, Trier, Germany.
Raw materials, OEM and PB option at Heimat Co., Japan Ltd
APCGCT: Asia Pacific Consortium of Gene and Cell Therapy
Gene Therapy Research Institution